Chiếc nón tinh tế
Theo Ban Quản lý chợ Đông Ba, hiện ở ngôi chợ này có hơn 200 quầy bán nón lá. Từ ngôi chợ 124 năm tuổi này, những chiếc nón bài thơ tỏa đi khắp các nẻo đường, đến với cuộc sống thường nhật của người phụ nữ. Nón bài thơ cũng như bao chiếc nón lá khác nhưng ở giữa 2 lớp lá được chèn một lớp giấy đã được đục lỗ, gọi là chạm lộng nhằm khắc câu thơ, hình ảnh về Huế. Người chằm nón sắp xếp lớp giấy đó tạo ra 4 mặt đối xứng. Trong đó, hai mặt đối diện nhau thường là hình ảnh tháp chùa Thiên Mụ - cầu Trường Tiền; 2 mặt đối xứng còn lại là những câu thơ, ca dao liên quan về Huế…
Gian hàng bán nón của bà Hà Thị Mạnh ở chợ Đông Ba có nhiều mẫu mã, từ nón lá bàng đến nón cỏ bàng… Chúng được thiết kế, bài trí với nhiều màu sắc bắt mắt, nhưng thu hút người mua nhất vẫn là nón bài thơ xứ Huế. Hơn 40 năm bán nón tại chợ Đông Ba, bà Mạnh vẫn nhớ sự kiện diễn ra vào năm 1963. Đó là một ngày đẹp trời, người đẹp Thẩm Thúy Hằng - một minh tinh màn bạc, biểu tượng nhan sắc của điện ảnh miền Nam Việt Nam trước năm 1975, đội chiếc nón bài thơ và đứng ở công viên Thương Bạc bên dòng Hương giang. Và từ đó chiếc nón bài thơ xứ Huế trở nên nổi tiếng, trở thành món quà để ai đến Huế cũng mua về tặng người thân.
Theo nhà nghiên cứu Nguyễn Xuân Hoa, sau khi du nhập từ Bắc vào thì chiếc nón Huế được làm chăm chút hơn để phục vụ tầng lớp quan lại, quý tộc. Vì vậy, cấu trúc thẩm mỹ thay đổi để mang vẻ duyên dáng hơn như khoảng cách giữa 2 mũi chỉ nón Huế gần hơn, đẹp hơn. Nón có đến 16 vành, đỉnh nón, quai nón cũng được trau chuốt hơn. Lúc này chiếc nón Huế đã trở thành trang phục người dân Kinh kỳ chứ không đơn thuần để che nắng như người dân Bắc Bộ.
Năm 1917 ngôi trường nữ sinh Đồng Khánh ra đời nằm cạnh bên trường Quốc Học của nam sinh. Mỗi ngày các cô gái đến trường trong bộ áo dài dưới sự nhìn ngắm của các học trò nam nên các cô gái tạo ra cốt cách e ấp, làm duyên như nghiêng nón, dáng vẻ thùy mị, nhẹ nhàng. Từ đó phát sinh ra hiện tượng là từ chiếc nón đơn giản ra nón bài thơ.
“Nếu như những hình ảnh, vần thơ đó được vẽ lên ở mặt ngoài chiếc nón thì khá thô thiển. Dưới bàn tay của người chằm nón, chúng được nằm giữa 2 lớp lá, khi dong lên trước ánh sáng ngọn đèn, ánh trăng, mặt trời thì mới thấy nên rất tinh tế. Huế được ví là thành phố học trò, từ những hình ảnh đó mà sinh ra hiện tượng tình yêu học trò” – ông Hoa đúc kết.
Người thợ đục giấy bài thơ
Bà Đoàn Thị Thu (50 tuổi, tổ dân phố Tân Mỹ, phường Thuận An, TP. Huế) là một người buôn nón lá có tiếng. Hàng ngày bà Thu đến các nhà chằm nón ở Tân Mỹ, chạy sang Quy Lai, Hải Trình (xã Phú Thanh, TP. Huế); xuống làng Diên Đại (xã Phú Xuân), Tây Hồ (xã Phú Hồ, Phú Vang)… để mua nón mang lên chợ Đông Ba bán lại cho các tiểu thương. Trong số hàng trăm chiếc nón mà bà Thu cung ứng mỗi ngày chỉ có khoảng 50 chiếc nón bài thơ.
Sau khi nhập hàng cho các tiểu thương, bà Thu mua các vật liệu làm nón như tre, lá nón, giấy bài thơ, chỉ, nhụy… để về cung cấp cho những người chằm nón. Giờ đây, làng Tân Mỹ chỉ còn khoảng 10 hộ gia đình chằm nón để mưu sinh, chủ yếu là phụ nữ lớn tuổi bởi nghề này cho thu nhập thấp.
So với chiếc nón bình thường, chằm nón bài thơ mất nhiều công sức hơn. Người thợ sau khi trải một lớp lá lên khuôn thì phải sắp xếp những tờ giấy bài thơ vào giữa rồi mới trải lớp lá thứ 2 lên và chằm. Hỏi nón bài thơ ở đâu đẹp nhất, bà Thu khẳng định rằng đó là nón ở làng Tây Hồ, xã Phú Hồ. “So với nón làng Tây Hồ thì nón bài thơ ở Tân Mỹ mỏng hơn, mũi chằm thưa hơn, lỗ kim to hơn nên không đẹp bằng. Vì vậy, giá một chiếc nón bài thơ do người thợ ở Tân Mỹ chằm chỉ bán được 30.000 - 35.000 đồng, trong khi nón Tây Hồ, Diên Đại có giá trên 100.000 đồng” – bà Thu đánh giá.
Giờ đây, có lẽ tại Huế chỉ còn một người duy nhất làm nghề đục giấy bài thơ để cung cấp cho những người chằm nón đó là chị Nguyễn Thị Mai (đường Đào Duy Từ). Đồ nghề của chị là chiếc đùi cui bằng gỗ, hàng chục chiếc đục, chiếc bạt bằng kim loại sắc nhọn. Trong căn nhà nhỏ, mỗi buổi sáng lại vang lên tiếng gõ búa của người phụ nữ làm giấy bài thơ.
Một tệp giấy được nhuộm cả trăm tờ được cắt theo mẫu và cố định thành từng xấp dày. Chị Mai đặt một chiếc khuôn làm bằng bìa giấy cứng đã chạm lộng hình cầu Trường Tiền, tháp chùa Thiên Mụ, cặp tình nhân hay nhưng câu thơ… rồi dùng bút vẽ tạo hình lên xấp giấy. Sau đó chị Mai sử dụng đồ nghề ngồi đục từng ô để tạo ra giấy bài thơ.
Những tờ giấy bài thơ sau khi chạm xong chị Mai giao cho mẹ chồng là bà Hồ Thị Xuyến để đưa ra chợ Đông Ba bán cho những người chằm nón. Bà Xuyến kể rằng, chồng bà vốn là một thầy giáo nhưng cuộc sống khó khăn do chiến tranh nên xin nghỉ dạy. Về nhà, ông học nghề từ các nghệ nhân làng chằm nón rồi “sáng chế” ra cách chạm chữ lên giấy để bán cho mọi người làm nón bài thơ.
Hồi đó chồng bà Xuyến thường mua giấy báo về nhuộm màu tím một mặt, sau đó mang đi phơi. Phải làm như vậy để khi tờ giấy bài thơ được bỏ vào giữa 2 lớp lá nón thì sẽ thành màu đen, dong nón lên ánh sáng mới thấy được bài thơ, hình ảnh. Chồng bà Xuyến qua đời, nghề chạm giấy bài thơ được chuyển giao cho người con dâu để kiếm kế mưu sinh. “Mỗi tờ giấy bài thơ được bán sỉ với giá khoảng 1.000 đồng, mỗi ngày tôi đục chỉ được 200 tờ nên thu nhập cũng thấp lắm. Tuy nhiên đây là nghề của gia đình, cũng nhẹ nhàng vì vậy tôi còn gắn bó với công việc này” - chị Mai nói thêm.