MẶT TRẬN TỔ QUỐC CÁC CẤP TỈNH THỪA THIÊN HUẾ THI ĐUA LẬP THÀNH TÍCH CHÀO MỪNG ĐẠI HỘI ĐẠI BIỂU MẶT TRẬN TỔ QUỐC VIỆT NAM LẦN THỨ X, NHIỆM KỲ 2024 – 2029 !

 

Tìm kiếm tin tức
 
Video khác
Liên kết website
Tỉnh ủy, UBND tỉnh
Sở, ban, ngành
Huyện, thị xã, thành phố
Chuyện đời của mệ
Ngày cập nhật 24/08/2020

Nhà nghiên cứu Nguyễn Hữu Thông là tác giả của nhiều chuyên khảo ấn tượng về văn hóa Huế, nhất là trong các khía cạnh tôn giáo tín ngưỡng, nhà vườn, nghệ thuật diễn xướng, nghệ thuật tạo hình. Ấy vậy mà điểm lạ là trong Đời của Mệ, ông đã thực sự đưa Huế đến với mọi người, đưa mọi người đến với Huế, với những góc khuất tận tâm can, nếp nghĩ suy trăn trở kiểu Huế, rất Huế, với văn vẻ dạ thưa “rất mệ”, gần gũi mà sang chảnh, như ai cũng thấy được chút gì từ chính mình trong đó.

Trong thổ ngữ vùng Huế, tiếng mệ, tiếng mụ nghe quá đỗi gần gũi, thân thương, có lẽ bởi trên hành trình mở cõi của dân tộc, cái gốc Việt Mường cổ xưa tiếp xúc hài hòa với yếu tố bản địa phương Nam ở cái rốn Thuận Hóa, định hình nên hồn cốt con người xứ sở này.

Từ buổi đầu, người Việt sớm chuyển hóa bà mẹ xứ sở Poh Iư Nagar thành Thiên Y A Na, cô đọng thành Thiên Mẫu mà dân gian quen gọi Thiên Mụ, mới đưa Bà Trời Áo Đỏ ở đồi Hà Khê, hay núi Hòn Chén về hóa thân thành Quan Âm, khai sinh chùa Thiên Mụ - sứ mệnh tư tưởng của Phật giáo Đàng Trong và xứ Huế thiền kinh.

Phật giáo hòa quyện Đạo giáo và những phương thuật tín ngưỡng dân gian để hóa giải vận hạn Bát thế hoàn Trung đô, giúp hoàng gia chúa Nguyễn hóa giải tai ách nhiều hoàng nam bạo bệnh mất sớm, có chuyện đổi gọi Mệ để che mắt các thế lực siêu linh gây hại. Mệ từ đó được tôn xưng cho hoàng gia, rồi mở rộng dần, như chỉ cái danh phận, cốt cách riêng có của họ, sau lan dần trong tâm thế, nếp nghĩ suy của lớp lớp chủ nhân chốn Kinh đô - Cố đô.

Ở chốn đô thành, Mệ được sinh ra trong danh gia vọng tộc, là thế phiệt trâm anh, ít ra cũng lấy cự tộc làm khát vọng vươn tới. Dù gia môn không giàu có vật chất, Mệ cũng luôn bảo toàn được di sản tinh thần, ráng trông lên ngó xuống để sống, mà hành xử, cho không thẹn với lòng, với tổ tiên, với trời đất và với tha nhân. Mệ noi gương tiền nhân, làm gương cho hậu bối và ráng làm điều tốt đẹp nhất cho gia môn, có “phương danh” và để lại “phước đức” cho con cháu, cho đời. Khi không làm được gì tốt đẹp cao xa thì cũng tối kỵ, không được làm điều xấu xa, “tạo nghiệp”, “ô danh” gia tộc. Cái lý tưởng quân tử của xã hội truyền thống chưa xa tựa như sự “bao đồng” kiểu “vác tù và hàng tổng” luôn thường trực trong Mệ: trăn trở với khát vọng xả thân, đau đáu với nỗi đau của tha nhân, dù chỉ là “dài lưng tốn vải”, có khi gia cảnh “chạy gạo”.

Chính sự uyển chuyển, hòa quyện và linh hoạt của Nho - Phật - Đạo và tổ tiên làm cho Mệ như hội đủ mọi điều để tĩnh tâm, thêm nghị lực khi đứng trước bàn thờ tổ tiên với chữ hiếu - trọng trách hương hỏa. Khát vọng Nho gia là nghị lực đèn sách trên bước đường hoạn lộ, tiếng chuông chùa sắc sắc không không giúp lắng lại và tĩnh tại, sự uyển chuyển vô vi của Đạo gia giúp họ cơ biến “nhập gia - đáo giang” tiến thoái hợp lý. Trước sự khắc nghiệt của thiên tai, sự nghiệt ngã của thế sự, Mệ luôn dằn lòng trấn tĩnh để thích ứng, buông bỏ quan trường, lánh xa thị trường, bất đắc dĩ ly hương hoặc ở lại thúc thủ sau cánh cửa miền phủ đệ danh gia một thời, để làm bạn với thiên nhiên, với tri kỷ tri âm. Xấu che, tốt càng phải che, những gì thấy được từ Mệ chỉ là một chút nhỏ trong “bồ thi thư”, bởi Mệ giữ lại tất cả trong người và chỉ chia sẻ khi cùng tần số.

Lòng tự trọng, tự hào, định hình nên cốt cách, khí phách của Mệ; sự ray rứt, lưỡng lự và loay hoay, lúng túng giữa lằn ranh nghiệt ngã của danh và thực lắm khi làm Mệ thao thức. Đói cho lành rách cho thơm, lời tiền nhân trao truyền mách bảo Mệ chọn lựa phương thức thúc thủ, từ chối mọi cơ hội mần ăn không rõ ràng, khép lại một miền phủ đệ sang chảnh chưa xa, cho lòng mình được sạch, được thơm. Cái hồn cốt Huế đó, chỉ cần được thổi thêm một nguồn sinh lực mạnh thường quân thì quả thật, đời Mệ thật thỏa chí.

Ra đi hay ở lại, trở về hay không, cửa đóng then cài liệu có níu giữ được hồn cốt Huế, lôi kéo bước chân con trẻ hay không... luôn làm Mệ đau đáu. Chính nỗi niềm ưu tư, dằn vặt thường trực đó càng làm cho vẻ mặt Mệ như bình thản hơn, để giấu đi những thảng thốt, giật mình cùng bao tiếc nuối, ngậm ngùi.

Không chỉ “áo em trắng quá nhìn không ra” mà sự uyển chuyển linh hoạt mờ ảo cũng rất khó nhận ra những thăng trầm nghiệt ngã, sự phân thân trong cõi nhân sinh của Mệ. Cửa vẫn đóng, then vẫn cài nhưng Mệ vẫn sẵn sàng thâu đêm suốt sáng với kẻ tri âm, người tri kỷ, luôn mỉm cười mãn nguyện dù có phần chua chát. Rõ ràng, Mệ vẫn luôn là người hạnh phúc, bởi hơn ai hết, Mệ vẫn an lòng bảo toàn được gia môn trước bao biến thiên nghiệt ngã của thời cuộc!

Chuyện Mệ thả om, Trái cấm vườn nhà tôi, Góc nhỏ miền cực lạc, Mệ chơi ca Huế ngủ đò sông Hương thâu đêm, hay Mệ chơi lan tỉ mẩn đầy triết lý từ ngọn lá mà chẳng phải từ hoa, chút rau dại trong vườn cùng tép khô, cá mụn nhưng mâm cơm như hóa rồng hóa phượng, thành tác phẩm nghệ thuật với bao triết lý âm dương ngũ hành... là những góc rặt Huế. Mệ thiệt tài hoa trong sự khốn khó nghiệt ngã của hoàn cảnh để thích ứng, đáng được thông cảm, sẻ chia hơn là mỉa mai, hờn trách. Đó là nốt nhạc ngân vang trong cuộc đời của Mệ.

Qua đây như có bóng hình của ông bà, cha mẹ, người thân và cả chính mình, để nâng niu, để yêu hơn nữa con người xứ sở này. Xin trân trọng giới thiệu cùng quý bạn đọc gần xa những mảnh rời ký ức, nỗi niềm trăn trở và day dứt khôn nguôi trong chuyện Đời của Mệ (sách 222 trang, khổ 14,5 x 20cm, Nxb. Hà Nội - Thaihabook, 2020, Phân viện Văn hóa Nghệ thuật Quốc gia Việt Nam tại Huế bảo trợ).

Theo baothuathienhue.vn
Các tin khác
Xem tin theo ngày  
Thống kê truy cập
Truy cập tổng 3.645.584
Truy cập hiện tại 524